Kết quả nghiên cứu công bố năm 2015 của diễn đàn kinh tế thế giới WEF (World Economic Forum) cũng cho thấy số lượng kỹ sư tốt nghiệp năm 201...
Kết quả nghiên cứu công bố năm 2015 của diễn đàn kinh tế thế giới WEF (World Economic Forum) cũng cho thấy số lượng kỹ sư tốt nghiệp năm 2015 của Việt Nam là 100,390 cử nhân là một trong 10 quốc gia hàng đầu thế giới có số kỹ sư rất lớn. Việt Nam chỉ đứng sau Nga, Hoa Kỳ, Iran, Japan, South Korea, Indonesia, Ukraine, Mexico và Pháp.
Theo số liệu chính thức do ban tuyên giáo trung ương Việt Nam tổng kết và đưa ra trong năm 2013, tính trên toàn quốc Việt Nam đã có 4,28 triệu người có trình độ học vấn từ bậc cao đẳng, hay đại học trở lên, trong đó có hơn 24.300 tiến sĩ, tức Doctor’s degree, hay Ph.D tức Doctor of Philosophy.
Số lượng giáo sư, phó giáo sư sau 25 đợt chính phủ tổ chức xét tuyển và phong cấp chức danh từ 1980 đến 2016, đã có 10.774 người trong tổng số các tiến sĩ nói trên, được cấp chức danh giáo sư (Professor), hoặc phó giáo sư (Associate Professor), trong đó có 1.715 giáo sư và 9.059 phó giáo sư.
Trong tổng số 24.300 tiến sĩ và với gần 11.000 chức danh giáo sư, phó giáo sư ở Việt Nam, chỉ có 8.869 tiến sĩ (36%) hay 4.900 người có chức danh giáo sư, phó giáo sư (44%) đang giảng dạy, hay tham gia vào các lãnh vực nghiên cứu khoa học ở các trường đại học. Nếu tính chung luôn với các nhà khoa học làm việc ở các viện nghiên cứu thì chỉ có tổng cộng 9.328/24.300 tiến sĩ có tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học. Trong số đó, có một số có công bố kết quả nghiên cứu lên các tạp chí, chuyên san khoa học quốc tế, trong danh sách được bình duyệt, chấp nhận bởi cơ sở dữ liệu trắc lượng khoa học ISI, hay Scopus.
Việc công bố kết quả đề tài nghiên cứu trên các tạp chí, chuyên san khoa học có uy tín, là một yêu cầu căn bản có tính bắt buộc, vì có qua đó mới khảo nghiệm được ảnh hưởng từ một đề tài nghiên cứu của các cá nhân, hay các tổ chức nghiên cứu khoa học lên cộng đồng khoa học thế giới, dựa vào chỉ số IF (Impact Factor) là số lần trích dẫn các bài trong tạp chí đó và chỉ số H-Index là ảnh hưởng cá nhân, biểu hiện bằng số lần trích dẫn bài viết, hay đề tài nghiên cứu của người đó. Do có quá nhiều tạp chí khoa học trên thế giới, nên chỉ có các tạp chí được Viện Thông tin Khoa học Hoa Kỳ (Institute for Scientific Information – ISI) khởi sự đánh giá từ năm 1960 và nhà xuất bản Elsevier của Hòa Lan với hệ thống Scopus bắt đầu đánh giá từ năm 2004 công nhận, mới được cộng đồng khoa học thế giới chấp nhận về mức độ uy tín, trong đó ISI có giá trị vượt trội
Số lượng đề tài công bố:
trong vòng 10 năm, từ 1996 tới 2005, các giáo sư, tiến sĩ Việt Nam chỉ công bố vỏn vẹn được 3.456 đề tài nghiên cứu khoa học, lên các chuyên san quốc tế thuộc hệ thống ISI, bằng 1/3 so với Malaysia, 1/5 so với Thailand và 1/14 so với Singapore.
Phẩm chất đề tài:
phẩm chất các đề tài do Việt Nam công bố lại càng thê thảm hơn. Số lần các đề tài nghiên cứu Việt Nam được các tác giả khác trích dẩn trung bình là 6,8 lần, so với số lần trích dẫn những đề tài do Thailand công bố trung bình là 12,95 lần.
Bằng phát minh sáng chế:
Bên cạnh sự kém cỏi của vấn đề công bố quốc tế về khoa học, những diễn tiến về cầu chứng bằng phát minh – được coi là thước đo đẳng cấp công nghệ, kỹ thuật của một nước, thì trong thời gian từ năm 2006 đến 2010, giới khoa học công nghệ Việt Nam cũng chỉ cầu chứng được 5 bằng phát minh tại Hoa kỳ. Năm 2011 lại không có cầu chứng bằng sáng chế nào mới, so với Singapore có 647 bằng, Malaysia có 161, Thailand có 53 bằng, Philippines có 27, Indonesia có 7 và Brunei có 1 bằng sáng chế cầu chứng năm 2011 tại Hoa kỳ. Tổng cộng số lượng bằng sáng chế do chính Việt Nam cấp theo tiêu chuẩn nội địa, cũng chỉ bằng 1/3 so với Thailand, 1/11 so Malaysia, 1/30 so Singapore, 1/1.214 so Nam Hàn và 1/3.170 so Trung Quốc.
Thời gian vừa qua đã có quá nhiều scandal xảy ra trong ngành giáo dục,có nhiều luồn dư luận chỉ trích phê phán,cũng có nhiều luồn dư luận lên tiếng bảo vệ cho rằng chúng ta đang có một nền giáo dục phát triển,người Việt chúng ta có nhiều giáo sư,tiến sĩ,kỹ sư giỏi đóng góp được nhiều cho nền khoa học và kinh tế của nước nhà,tuy nhiên qua con số thống kê trên thì mọi người có thể tự suy luận thực trạng của nền giáo dục Việt Nam mà không cần phải bàn cải,đó là lý do mỗi năm người Việt phải tiêu tốn 3-4 tỷ usd để cho con cái đi du học ở Mỹ,Anh,Châu Âu,Nhật,Singapore… Đặc biệt đa phần con cái của giáo sư,tiến sĩ và các quan chức cấp cao đều được du học bên ngoài Việt Nam và nhiều nhất là du học ở Đế Quốc Mỹ.
Yen Vo
Không có nhận xét nào