Ngày này, 73 năm trước, ngày 6/8 và ngày 9/8/1945, hai quả bom nguyên tử đã được thả xuống 2 thành phố đông đúc của Nhật là Hirosima và...
Ngày này, 73 năm trước, ngày 6/8 và ngày 9/8/1945, hai quả bom nguyên tử đã được thả xuống 2 thành phố đông đúc của Nhật là Hirosima và Nagasaki, với hình ảnh là 2 cột mây hình nấm, đã lưu lại trong ký ức nỗi ám ảnh kinh hoàng của hàng triệu người không chỉ là người dân Nhật Bản.
Nói đến Thế Chiến 2 phải nói đến quyết định đánh bom nguyên tử của chính phủ Hoa Kỳ. Nhiều người vẫn cho rằng quyết định dùng bom nguyên tử là một hành động vô nhân đạo, một cách giết người tập thể quá dã man. Trái lại, cũng có nhiều người - nhất là các nhà quân sự - cho là làm như vậy là cần thiết. Đến nay, điều nầy chưa ngã ngũ. Vì vậy, câu hỏi đặt ra là “việc dùng bom nguyên tử thả xuống Nhật vào năm 1945 có cần thiết hay không?” vẫn cần phân tích, lý giải.
Nguyên lý của bom nguyên-tử (còn gọi là bom A): “Những phản ứng dây chuyền của sự phân đôi hạt nhân sẽ gây nên một sự bùng nổ khổng lồ”. Các chuyên gia dựa vào hiện tượng phân hạch hạt nhân để chế ra bom nguyên tử. Nhân nguyên tử của chất phóng xạ (Uranium hay Plutonium) sẽ bị phân đôi khi bị một Neutron bắn phá, sau đó tạo ra năng lượng và sinh ra nhiều Neutron nữa. Một phản ứng dây chuyền xảy ra và năng lượng sinh ra đạt đến mức khổng lồ. Chỉ cần 2 pound Uranium làm thoát ra năng lượng tương đương 10,000,000 pound than đá. Sức mạnh của bom nguyên tử dựa vào phản ứng nhiệt hạch. Năng lượng ban đầu được kích phát sẽ làm nóng và nén một hỗn hợp gồm Lithium (loại kim loại nhẹ) và Deuterium (một thể nặng của Hydro) rồi bao bọc một miếng Uranium. Các Neutron từ Uranium lúc này bắn phá và tách Lithium thành Helium và Tritium (một thể nặng hơn nữa của Hydro). Tritium và Deutrium bắt đầu chảy ra, sản sinh Helium và một Neutron. Neutron tiếp tục bắn phá trong một chuỗi dây chuyền đồng loạt như thế. Sức mạnh của bom nguyên tử là khủng khiếp.
Quả bom nguyên tử thử nghiệm đầu tiên được đặt tên là Mike, sức nổ mạnh tương đương 10 triệu tấn thuốc nổ. Ngay cả những nhà khoa học từng thấy hiện tượng phản ứng hạt nhân cũng phải bàng hoàng khi chứng kiến cuộc thử nghiệm. Ông Mike, một nhà khoa học về bom nguyên tử của Mỹ đã cho hay:
-“Cảnh tượng thật khủng khiếp và tàn bạo, dường như mọi vật biến mất. Nó làm chúng tôi lóa mắt không chỉ một hai giây mà hàng phút liền”.
Tổng thống Harry Truman cũng đã thừa nhận về sức mạnh của bom nguyên tử, ông đã viết trong nhật ký:
-"Chúng ta đã chế tạo ra một quả bom kinh hoàng nhất trong lịch sử thế giới. Nó như biển lửa tàn phá ở thời kỳ Lưỡng Hà, sau thời của con thuyền thần kỳ của Noah".
Thủ tướng Anh Winston Churchill lúc đó đã ví hai vụ ném bom xuống đất Nhật giống như "Cơn thịnh nộ thứ hai của Chúa".
Phía Mỹ thì cho đó là quyết định cần thiết, giúp giải quyết chiến tranh chóng hơn, nhân loại đỡ chịu thương đau thêm. Người ra lệnh là Tổng Thống Harry Truman, mãi cho đến khi qua đời, ông vẫn cho là quyết định đúng đắn.
Sự thật như thế nào?
* Phía Đồng minh, quân đội Mỹ là “nỗ lực chính”. Do vậy, mọi tính toán, quyết định đều do các nhà lãnh đạo Mỹ nghiên cứu và quyết định, làm thế nào có lợi cho Mỹ nhiều hơn, quân Mỹ ít bị thiệt hại.
* Phe Bộ Binh của Mỹ thì cho là nên dùng biện pháp đổ quân. Phe Hải quân thì cho là dùng máy bay từ các Hàng không mẫu hạm (HKMH) thả bom đánh phá và phong tỏa Nhật cho đến khi đầu hàng. Ðô Ðốc Nimitz đã trình bày với Thủy Sư Ðô Ðốc King, Tư lệnh Hải Quân Mỹ là ông không ủng hộ giải pháp đổ bộ. Qua kinh nghiệm trong hai tháng đánh chiếm Okinawa, đã tổn thất 21,000 người, một con số rất lớn. Ngoài ra, còn nhiều trận khác, con số thương vong của Mỹ cộng lại cũng khá cao. Do vậy, dùng bom đánh Nhật để tránh thương vong cho quân Mỹ nếu đổ quân lên đất Nhật.
* Theo kế hoạch tướng MacArthur đề ra, nếu đổ bộ, Mỹ sẽ mở hai cuộc hành quân chính. Cuộc hành quân đầu mang tên là “Chiến dịch Olympic” sẽ đổ bộ vào đảo Kyushu, một trong 4 đảo chính của Nhật. Khi đã chiếm được Kyushu, sẽ lập các đầu cầu để mở “Chiến dịch Coronet”, mang quân trú tại Kyushu tấn công vào thủ đô Nhật và các đảo khác.
* Chiến trường Châu Á – Thái Bình Dương, về phe Trục, do Nhật đảm trách. Lúc đó Nhật còn gần 3 triệu quân đóng trong nước, còn 10,000 máy bay, một nửa trong số đó là các phi đội cảm tử “Thần Phong”, đang chờ được “vinh dự lao vào quân đội Mỹ”. Hơn nữa, lịch sử nước Nhật chưa bao giờ bị quân ngoại bang tấn công. Nhật tin là dân chúng sẵn sàng chiến đấu bên cạnh quân đội. Họ cho rằng dù Nhật có bị chết 5 triệu người thì cũng chưa đến nỗi phải đầu hàng. Ngoài ra, tinh thần chấp hành thượng lệnh của họ rất cao.
* Tin tình báo lúc đầu cho biết: Nhật có gần 400,000 quân bảo vệ Kyushu. Đến ngày 24/6, con số là 500.000 và rồi ngày 6/8 là 560.000. Những con số này dựa trên các dữ liệu thu được từ do thám, tình báo, tin từ hệ thống thám không của Nhật (còn gọi là Ultra) đánh đi. Nhưng về sau, tin tình báo cải chính có gần 700,000 quân Nhật ở trên đảo, với 6,000 máy bay. Vì vậy, Mỹ dự trù dùng 680,000 quân và 10,000 máy bay. Tuy phía Hải quân của Nimitz chống lại giải pháp đổ bộ nhưng MacArthur tỏ ra không tin đến những con số tình báo nầy, ông cho là cứ tiến hành chiến dịch Olympic. Nhưng con số thực của binh sĩ Nhật tại Kyushu tính đến ngày 6/8 là 900.000 quân. Cuộc tấn công Kyushu được dự tính vào ngày 1/11. Đến thời điểm đó, quân Nhật sẽ tăng lên trên 1 triệu quân, một con số kinh khiếp.
* Căn cứ vào số thiệt hai do các cuộc tấn công vào lãnh thổ Nhật, điển hình là vụ tấn công Iwo Jima và Okinawa vào năm 1945 rất cao. Vụ tấn công Iwo Jima đã tổn thất 6.200 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Vụ tấn công đảo Okinawa Mỹ tổn thất đến 13.000 người, 1/3 số này bỏ mạng trên tàu do các Phi đội Thần phong Nhật. Từ ý tưởng tự sát và do những máy bay lỗi thời này thường không đủ xăng quay trở lại căn cứ, các phi-công Nhật biến máy bay của họ thành bom. Chỉ riêng chiếc USS Franklin, Mỹ đã mất 1.000 binh sĩ và chiếc chiến hạm biến thành một biển lửa là do các phi công cảm tử này gây ra.
* Từ tổng kết các trận thực chiến đã xảy ra, chưa bao giờ có một đơn vị quân Nhật nào chịu đầu hàng, vì vậy con số thương vong rất cao. Các cuộc đổ bộ ở Thái Bình Dương tỷ số tổn thất cao gấp 5 lần các trận ở Âu, Phi Châu. Vì vậy, chuyên gia Mỹ dự tính là nếu tấn công Kyushu, số tử vong của quân Nhật lên tới vài trăm ngàn. Đó là chưa kể số thường dân tham gia việc phòng thủ, có thể vài trăm ngàn người chết nữa. Về phía Mỹ, muốn chiếm được Kyushu, số thiệt hại dự tính sẽ từ 150,000 đến 350,000 người, trong đó, số tử thương có thể từ 35,000 đến 150,000.
* Như vậy, chỉ tính riêng việc đổ bộ lên đảo Kyushu, có thể 500 ngàn người Nhật và vài trăm ngàn quân Mỹ, con số cao hơn dân số ở hai thành phố Hiroshima và Nagasaki cộng lại. Khả năng kháng cự của quân dân Nhật ở Kyushu chưa ai biết bao giờ chấm dứt và con số thương vong sẽ càng cao hơn. Ngoài ra, khả năng chống cự đến cùng hay tự sát của quân Nhật cũng được phía Mỹ xét đến. Trong trận tấn công đảo Kiuriu, sau khi thấy không thể chống cự, ngày 22-6, viên Trung Tướng Nhật chỉ huy trên đảo cùng tất cả quân lính Nhật tự sát tập thể. Ngày 15-5-1944, Thủy quân Lục chiến Mỹ đổ bộ lên đảo Saiban, căn cứ địa của quân Nhật. Cuộc chiến vô cùng khốc liệt vì quân Nhật điên cuồng cố thủ, đến độ cuối cùng rút chốt lựu đạn tự sát chứ không chịu đầu hàng. Trận nầy quân Mỹ tử thương 3.400 người, gần 1.000 người bị thương. Phía Nhật, số xác chết đếm được là 23.000 người. Ngoài ra, Mỹ còn nhớ đến tổn thất trong cuộc tấn công hòn đảo Luzon, Philippines trong đó 31.000 người thương vong cho cả hai phía và dân thường.
* Điều khiến TT Truman quan tâm nhất lúc đó là số thương vong của quân đội Mỹ. Trong một đoạn hồi ký, Truman đã viết:
-"Tôi đã hỏi tướng George C. Marshall nếu phải đưa lính tới Tokyo và các khu vực khác thì tổn thất sẽ là thế nào. Ông ấy trả lời rằng nếu đổ quân Nhật sẽ thiệt hại ít nhất khoảng 350.000 lính Mỹ".
* Cũng theo dự tính của Mỹ, giới quân phiệt Nhật có thể đã tính đến nước bài tuyên bố “thiết quân luật” khi có cuộc đổ bộ của quân Mỹ. Nếu quyết định thiết quân luật được ban ra rồi thì quyết định thuộc về các vị tướng lãnh chủ chiến. Khi đó, chiến tranh sẽ kéo dài không biết đến bao giờ. Nếu lệnh đầu hàng không phải do Thiên Hoàng ban ra thì binh sĩ chắc cầm cự cho đến chết. Sau nầy, chính Thủ Tướng Suzuki đã khai rằng “quân Nhật cho là sẽ chiến đấu tới cùng” vì “tin rằng họ sẽ đánh bại được quân Mỹ”.
* Và nếu chiến tranh kéo dài, đến một ngày nào đó, nước Nhật chắc chắn sẽ kiệt quệ. Chừng đó, bao nhiêu người Nhật đau khổ, tang thương nữa, không ai lường trước được. Ngoài ra, tù binh Đồng minh bị Nhật bắt cầm tù, con số không ít, chắc sẽ bị bỏ chết đói hay bị họ thủ tiêu.
* Đối với giới quân phiệt Nhật, hành động thả bom nguyên tử của Mỹ đã giúp họ nhiều việc. Thứ nhất, hai trái bom nguyên tử giúp họ có một cơ hội quyết định mà không mất thể diện. Họ cho rằng: đầu hàng là để cứu dân chứ không phải vì hèn nhát. Thứ hai, chấp nhận đầu hàng Mỹ, Nhật tránh được một mối lo khác, đó là chế độ Cộng sản. Stalin đã tuyên chiến với Nhật và đánh bại đạo quân Quan Ðông của Nhật ở Mãn Châu khi đã rảnh tay ở mặt trận Châu Âu. Giới quân phiệt Nhật cũng biết tại Hội Nghị Yalta, đồng minh đã đồng ý để quân Nga chiếm đảo Hokkaido của Nhật. Cuộc chiến ở Hokkaido có thể làm thiệt mạng gần nửa triệu quân Nhật và khoảng nửa triệu thường dân. Như vậy, giới quân sự Nhật, bên ngoài thì trách Mỹ với hai quả bom nguyên tử nhưng sau đó, họ đã suy xét lại nên không có hành động chống Mỹ quyết liệt do hận thù từ đó đến nay.
* Giáo sư sử học và là giám đốc trung tâm nghiên cứu Chiến tranh Lạnh thuộc Đại học California, ông Tsuyoshi Hasegawa, trong cuốn “Racing the Enemy”, đã đưa ra một số giải thích đối với những sự kiện liên quan đến vấn đề này. Ông Hasegawa cho rằng lãnh đạo Nhật không quá quan tâm tới những thiệt hại của Nhật do bom nguyên tử của Mỹ bởi họ cũng sẽ chịu tổn thất tương tự, có khi còn nặng hơn, với những loại bom quy ước (bom thông thường) của Mỹ. Ông cho rằng việc quân Nga trở lại Á Châu mới làm Nhật lo sợ, với thảm họa Cộng sản.
* Nhà sử học của Mỹ Richard B. Frank, người thường có quan điểm trái ngược với ông Hasegawa, trong cuốn Downfall phát hành năm 1999, ông Richard B. Frank đoan chắc:
-“Sẽ chỉ là ảo tưởng nếu cho rằng chiến tranh có thể kết thúc trước khi Mỹ dùng tới bom nguyên tử".
* Những tranh cãi về vấn đề này vẫn còn tiếp tục. Tại một hội nghị do Greenpeace tổ chức tại London nhân 60 năm thạm họa bom nguyên tử được thả xuống đất Nhật, ông Mark Selden, giáo sư Đại học Binghamton ở New York cho rằng còn có nhiều toan tính toán chiến lược đằng sau quyết định của Truman. Ông nói:
-"Có những người tin rằng thả quả bom sẽ thúc đẩy chiến tranh chóng kết thúc, và như vậy vị thế của Mỹ ở châu Á được nâng lên. Thực chất, đây là một cuộc chạy đua với Nga. Mỹ thả bom, ngoài việc tiêu diệt Nhật, còn có mục đích là để cảnh báo với thế giới về sự lớn mạnh của Mỹ. Nó đồng thời ngăn chặn việc Nga đưa quân xâm chiếm Nhật, hoặc cho dù nếu việc đổ bổ Nhật xảy ra thì Mỹ sẽ phải là lực lượng dẫn đầu chiến dịch đó".
* David McCullough, một nhà sử học lừng danh của Mỹ, tác giả có nhiều sách bán chạy nhất (best seller), 2 lần thắng giải Pulitzer, người được gọi là “bậc thầy của nghệ thuật viết văn ký thuật lịch sử (master of the art of narrative history), trong cuốn “Truman”, xuất bản vào năm 1993 (cuốn sách đoạt giải Pulitzer) đã có một giải thích thực tế, đáng tin cậy hơn trước động cơ của Truman khi ra lệnh thả bom. Ông viết:
-"Làm thế nào mà một vị tổng thống, hoặc những người có trách nhiệm, có thể trả lời với nhân dân Mỹ... nếu sau khi đổ cả một biển máu để xâm chiếm Nhật Bản, mà sau đó người dân Mỹ mới biết rằng Mỹ có thứ vũ khí có khả năng chấm dứt cuộc chiến đã được chế tạo xong từ giữa mùa hè mà không được sử dụng?".
Qua những sơ lược vừa kể, và còn có nhiều tài liệu khác nữa chưa được giải mã, với sự thiệt hại của 2 thành phố Hirosima và Nagasaki, nếu đem so với những thiệt hại không lường được mà quân dân Nhật, quân đội Đồng Minh và dân chúng ở những vùng đất mà Nhật chiếm đóng gánh phải, bên nào nặng hơn? Đó là câu trả lời cho câu hỏi nêu trên trước quyết định thả hai quả bom nguyên tử xuống đất Nhật, chấm dứt chiến tranh, đem thanh bình cho nhân loại.
Người Nhật ngày nay đã giàu nhờ phát triển kinh tế nên rất sợ chiến tranh. Người ta nghĩ rằng đa số người dân Nhật không oán trách Hoa Kỳ về việc thả bom nguyên tử trên đất nước họ, qua những thiện chí và hợp tác của họ với người Mỹ chính bởi vì họ hiểu được và thông cảm được với quyết định của Tổng thống Harry Truman ngày đó. (LQL – ST).
Không có nhận xét nào